Bối cảnh Đảo_chính_Campuchia_1970

Kể từ khi giành được độc lập từ tay Pháp vào năm 1954, Campuchia được dẫn dắt bởi Hoàng thân Norodom Sihanouk, mà phong trào chính trị Sangkum của ông đã giữ lại quyền lực sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1955. Đến năm 1963, Sihanouk đã buộc Quốc hội thông qua việc sửa đổi hiến pháp cho phép ông nắm giữ chức vụ Quốc trưởng với nhiệm kỳ vô hạn định. Ông đã giữ lại quyền lực quốc nội thông qua một sự kết hợp của các thao tác chính trị, đe dọa, bảo trợ, và sự cân bằng thận trọng giữa thành phần cánh tả và cánh hữu trong chính phủ của ông; trong khi xoa dịu quyền lợi bằng thuật hùng biện dân tộc, ngoài ra ông còn sử dụng nhiều ngôn từ của chủ nghĩa xã hội để cách ly các phong trào cộng sản Campuchia mà ông hay nhắc đến chính là Khmer Đỏ.[3]

Với sự leo thang của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hành động cân bằng giữa hai bên tả hữu của Sihanouk ngày càng khó mà duy trì nổi. Buôn lậu gạo qua biên giới cũng bắt đầu ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Campuchia.[4] Trong cuộc bầu cử Campuchia năm 1966, chính sách Sangkum thông thường có một ứng cử viên trong mỗi khu vực bầu cử đã bị hủy bỏ; Có một sự chuyển hướng lớn qua cánh hữu, đặc biệt là các đại biểu cánh tả đã phải cạnh tranh trực tiếp với các thành viên của giới tinh hoa truyền thống, những người có thể sử dụng ảnh hưởng của địa phương họ.[5] Dù chỉ có vài thành viên Cộng sản trong Sangkum chẳng hạn như Hou Yuon, Hu NimKhieu Samphan là chọn sự chống cự, hầu hết phe cánh tả đều chịu thất bại. Lon Nol, nhân vật thuộc cánh hữu từng một thời là đồng minh thân cận của Sihanouk được đề cử giữ chức Thủ tướng.

Đến năm 1969, Lon Nol và phái cánh hữu áp đảo ngày càng thất vọng với Sihanouk. Mặc dù dựa trên một phần về chính sách kinh tế, sự cân nhắc chính trị cũng có liên quan. Đặc biệt, sự nhạy cảm dân tộc và thiên hướng chống cộng sản của Lon Nol và các cộng sự của ông hàm ý rằng họ không thể chấp nhận được chính sách bán khoan dung của Sihanouk đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong phạm vi biên giới Campuchia; riêng Sihanouk, trong quá trình nghiêng về cánh tả trong giai đoạn 1963-1966, đã thương lượng một thỏa thuận bí mật với Hà Nội theo đó sẽ đảm bảo nối lại việc thu mua lúa với giá cao, cảng Sihanoukville được mở cửa cho việc bốc dỡ và vận chuyển vũ khí cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Cũng như những nhà dân tộc hữu khuynh, các yếu tố hiện đại hóa tự do trong Sangkum, do In Tam đứng đầu dần trở nên ngày càng xa lạ theo phong cách chuyên quyền của Sihanouk.[6]

Không có bằng chứng cho rằng vào năm 1969 Lon Nol tiếp cận các căn cứ quân sự Mỹ nhằm đánh giá sự hỗ trợ quân sự cho bất kỳ hành động nào chống lại Sihanouk.[7] Lon Nol được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng, Hoàng thân Sisowath Sirik Matak, một người theo chủ nghĩa quốc gia và lãnh đạo cộng đồng các doanh nghiệp Campuchia được cho là đã gợi ý rằng Sihanouk nên bị ám sát, mặc dù Lon Nol đã bác bỏ kế hoạch này là "âm mưu điên rồ".[8] Bản thân Sihanouk nghĩ rằng Sirik Matak (người mà ông mô tả như là kẻ thèm khát ngôi vua Campuchia) được CIA ủng hộ và tiếp xúc với đối thủ của Sihanouk đang sống lưu vong là nhà dân tộc chủ nghĩa Sơn Ngọc Thành, đã đề xuất kế hoạch đảo chính với Lon Nol vào năm 1969.[9] CIA tham gia vào âm mưu đảo chính hiện vẫn chưa được xác thực và Henry Kissinger về sau tuyên bố rằng sự kiện này đã làm bất ngờ chính phủ Mỹ, nhưng có vẻ như là chỉ là lỗi một phần của một số ít nhân viên tình báo quân sự.[10] Nó cho thấy rằng quân đội Mỹ đã lập kế hoạch cho một cuộc xâm lược vào lãnh thổ Campuchia trong những năm 1966-1967 và bị bác bỏ khi Tổng thống Lyndon B. Johnson không tán thành.[11]

Các tài liệu giải mật còn cho biết thêm vào cuối tháng 3 năm 1970, chính quyền Nixon đã hy vọng tạo dựng mối "quan hệ thân thiện" với Sihanouk thế nhưng không được sự đồng tình của ông hoàng này vì nghi ngờ người Mỹ đã tiếp tay cho cuộc đảo chính thành công.[12]